Tocha (đấu trà) đã thịnh hành ở Trung Quốc vào thời Tống và lan sang Nhật Bản cuối thời Kamakura và phát triển mạnh từ thời Nam-Bắc triều đến thời kì Muromachi (1392-1568). Nơi tiến hành Tocha mô phỏng kiểu trà Trung Quốc gọi là Kisatno ten (Khiết trà chi điếm). Tuy nhiên, tính chất của Tocha ở Nhật Bản rất khác với Tocha ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta ganh nhau về cách pha trà còn ở Nhật Bản lại thiên về loại trà: sau khi đã thưởng trà, người ta đoán xem đâu là honcha và đâu là hicha. Người thắng cuộc được nhận giải thưởng (đầu tiên chỉ mang tính tinh thần, sau chuyển sang tiền, cá cược).
Đối với giới võ sĩ quý tộc và cao cấp, từ khi nghi lễ Tocha thịnh hành thì những vật dụng liên quan đến uống trà và cách thức uống trà cũng dần trở thành nguyên tắc. Trong các phòng trà có sự hòa quyện của hương trà với những vật trang trí, trà cụ đã tạo nên khung cảnh đặc trưng của Tocha. Dưới ảnh hưởng của tầng lớp Samurai thì nghi lễ uống trà dần hình thành với những quy tắc rất tỉ mỉ và buộc phải tuân theo. Đây chính là những cơ sở đầu tiên của Trà đạo.
Tuy nhiên, phải đến thế kỉ XV, dưới thời tướng quân Ashikaga Yoshimasu (Túc Lợi Nghĩa Chính, 1436-1490) cai trị, những nghi thức thưởng thức trà mới được hoàn thiện và được ghi chép lại để truyền bá thành những trường phái biệt lập. Hai thiền sư Joo (1503-1555) và Shenno Soeki (Rikyu, 1521-1591) là những người có đóng góp lớn trong việc định hình trang trí trà thất và phong cách thưởng trà.
Trà thất biệt lập đầu tiên do Rikyu tạo lập dưới sự bảo trợ của Taiko Hideyoshi (Thái Cáp Tú Cát). Nhìn bề ngoài trà thất không có gì đáng chú ý, người ta cố tình tạo cho nó vẻ thanh bần nhưng thực ra từng chi tiết nhỏ đều đã được cân nhắc, lựa chọn rất kĩ. Lúc đầu trà đạo chỉ phổ biến trong giới tăng lữ và quý tộc, sau phát triển ra toàn xã hội và được phổ biến rộng khắp. Sự thưởng thức hương vị trà phát triển song song với phái Thiền tông của Đạo Phật.
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Thiền, tôn chỉ của trà đạo là đơn giản, thanh tịnh, đưa con người trở về với tự nhiên. Theo Rikyu, “Trà đạo là sự chiêm nghiệm vẻ đẹp dưới ánh sáng mờ nhạt của ngày thường”. Nghệ thuật trà đạo theo ông thì chỉ cần “Nấu nước cho sôi, pha vào trà, rồi thêm các thứ hương liệu cần thiết. Đừng quên màu sắc, trông phải như ngoài đời thật, mới đẹp mắt. Chỉ có vậy thôi”. Nhưng để làm được những điều giản dị ấy thì quả thật là không đơn giản chút nào.
Nghi lễ trà đạo nghiêm ngặt, kính cẩn, được chuẩn bị kĩ càng tới từng chi tiết: trà thất, vườn, cách trang trí trà thất, cách cắm hoa, cách chế biến trà; việc chọn loại bánh ngọt theo mùa, dụng cụ pha trà, củi đun nước, độ sôi; rồi cách thức pha trà, rót trà… thông qua đó rèn luyện đạo đức của con người.
Tại Nhật Bản, có hai nghi thức trà đạo: senchado (sử dụng lá trà) và matchado (sử dụng trà bột), thường được gọi là Chanoyu.
Senchado là nghi thức uống trà tương đối đơn giản và phổ thông. Sencha được chế biến từ những cuộn lá trà, một trong các loại trà xanh phổ biến nhất của Nhật Bản. Người Nhật thích uống sencha khi ăn hoặc nghỉ ngơi. Mời khách đến nhà uống sencha là một trong những phong tục rất được trân trọng của người Nhật. Tình cảm của chủ nhà đối với khách được thể hiện qua sự chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo cho một tách sencha: từ lá trà, nước nóng, bình đựng trà, trang trí và bày biện không gian căn phòng một cách hài hoà cho đến phong cách lịch sự của người phục vụ.
Matchado (匹儔), hay Chanoyu (茶の湯) mới là nghi thức uống trà truyền thống điển hình. Để thực hiện một buổi trà đạo chanoyu, cần chuẩn bị những thứ cần thiết sau:
1) Trà thất (Sukiya): Sukiya gồm có một phòng trà chính kích thước bằng bốn chiếc chiếu rưỡi, đủ để tiếp đón không quá 5 người; một phòng “thủy ốc” (Mizuya) để rửa và sắp xếp các bộ trà trước khi bưng vào trà thất; một hành lang ở cửa ra vào (Machiai) để khách đợi tới khi chủ nhân mời vào; và một “lộ địa” (Roji) là lối đi trong vườn nối liền hành lang với trà thất. Thường trà thất được cất ở chỗ u tịch nhất trong hoa viên, và cũng cần có cây cao, hoa nở bốn mùa, suối reo, lối đi rải đá cuội, rong xanh trải đất. Bài bản là như vậy, còn trên thực tế thì phải là quý tộc cao cấp mới có điều kiện xây cất được những trà thất chuẩn, với hàng trung lưu thì chỉ cần có nơi thanh tịnh thoáng mát là có thể sửa soạn tiệc trà theo nghi lễ được rồi.
2) Trà cụ, gồm: Chawan: bát để pha và uống trà. Cha-ire: hộp đựng trà bột. Cha-sen: chổi làm bằng tre dùng để khuấy cho trà nhanh tan. Cha-shaku: thìa tre để xúc trà.
Có hai loại đồ gốm Việt rất được ưa chuộng trong các nghi lễ trà đạo Nhật Bản: Annam Yaki (gốm An Nam) là gốm hoa lam của các lò Chu Đậu và Bát Tràng ở Đàng Ngoài thời Lê-Mạc; và Kochi Yaki (gốm Giao Chỉ, tức gốm CochinChina) là sản phẩm xứ Quảng Nam thuộc Đàng Trong của chúa Nguyễn về sau. Trên nền chùa cổ Daizaifu Kanzeon-ji người ta đã đào được nhiều mẩu gốm vỡ của bát trà Đại Việt thời Trần có niên đại khoảng năm 1330. Ngày nay trong các bảo tàng ở Nhật vẫn còn lưu giữ những món trà khí Việt từ đời Lý- Trần-Lê-Mạc.
3) Trang phục: khiêm tốn, tao nhã. Khi có đại lễ quan trọng thì những người tham gia đều mặc Kimono (thường có thêu dấu hiệu gia tộc), đi tabi (tất trắng), mang theo một cái quạt giấy và giấy trải nhỏ kaishi.
Một buổi trà đạo bao gồm các nghi lễ sau:
1) Một bữa ăn nhẹ (kaiseki): Chủ nhân mời khách đi từ phòng chờ theo lối nhỏ, qua một hoa viên xinh xắn để đến trà thất. Cạnh lối đi có một bể nước để khách làm lễ “tẩy trần” (rửa tay và xúc miệng). Trà thất có cửa vào rất thấp, khách phải quỳ gối chui vào [2] để tỏ sự kính trọng và phục thiện. Ở giữa phòng chính có bày một bếp lửa, trên đặt một siêu nước. Bước vào phòng, mỗi khách mời đều phải cúi đầu trước tokonoma – nơi danh dự trong nhà Nhật Bản để trưng bày hoa và họa phẩm. Khách cầm quạt điềm tĩnh ngắm tranh treo và chiếc đỉnh con đặt trên bàn bên cạnh. Sau đó, khách phân ngôi thứ mà an tọa, vị khách quan trọng sẽ được xếp ngồi gần chủ nhân. Chào hỏi xong thì dọn kaiseki và thức ăn ngọt.
2) Một phút nghỉ (nakadachi): Chủ nhân ra dấu mời khách trở lại sân hoa viên, ngồi trên ghế dài ngắm cảnh xem hoa trong lúc mình chuẩn bị tiếp.
3) Lễ dâng trà đậm koicha (goza-iri): Chủ nhân dùng chày gỗ gõ vào khánh đồng treo trong trà thất, báo hiệu lễ chính bắt đầu. Khách nghe thấy thì cung kính đứng dậy lại hồ nước rửa tay và xúc miệng một lần nữa rồi trở vào trà thất.
Lúc đó sẽ có một người kéo tấm mành tre ngoài cửa sổ lên để ánh sáng tràn vào phòng. Bức tranh cổ, bây giờ được cất đi và thay vào đó là một bình hoa được cắm theo nghi thức cổ truyền.
Chủ nhà quay trở lại cầm theo một chậu đựng nước nóng để tráng bát, một gáo múc nước và một giá kê (để sau đó sẽ kê gáo hoặc để đỡ nắp siêu). Chủ nhân hoặc một người phụ tá sẽ bưng ra một hộp mứt bánh đặt trước mặt vị quan khách quan trọng nhất. Chủ nhân lấy khăn fukusa lau sạch hộp đựng trà cha-ire và thìa tre xúc trà cha-shaku, rồi lấy chổi tre cha-sen cho vào nước nóng (lấy từ siêu đặt trên bếp bằng loại gáo riêng). Bát to cha-wan cũng được dội qua nước nóng (nước rửa trút vào chậu nhỏ), lấy khăn vải gai mịn chakin lau lại cả mặt trong và mặt ngoài bát. Chủ nhân lấy thìa tre chuyên dụng cha-shaku xúc 3 thìa trà từ hộp trà bột cha-ire ra bát đó. Rồi lấy gáo tre múc đầy nước sôi trong siêu nhưng chỉ rót 1/3 vào bột trà đựng trong bát, nước còn thừa thì đổ lại vào siêu. Chủ nhân sẽ dùng chổi tre cha-sen khuấy cho trà tan đến khi sền sệt là được. Đây là cách pha trà đậm koicha.
Sau khi đã khuấy tan trà xong thì chủ nhân sẽ đặt bát trà cạnh bếp lửa. Khách mời, sau khi dùng mứt, sẽ đến quỳ và nâng bát trà lên. Nếu có người phụ tá thì người này có nhiệm vụ dâng trà cho người khách đó. Ông này, sau khi cúi đầu chào những người khác thì nâng bát trà lên đặt vào lòng bàn tay trái, tay phải giữ bên cạnh cho thêm chắc. Ông nhấp một hớp, ngưng lại gật đầu ra dấu khen ngon, hớp thêm vài hớp nhỏ rồi lấy khăn giấy mỏng kaishi lau miệng bát chỗ mình uống cho thật sạch, rồi chuyền cho vị khách bên cạnh, người này cũng làm y như người thứ nhất và cứ tiếp tục chuyền cho tới người thứ năm. Người cuối cùng sau khi dùng trà rồi thì trả lại cho người khách đầu tiên để trao lại cho chủ nhân.
4) Lễ dâng trà ngon (usacha): Khác với lễ koicha, vì bột trà dùng ở đây là các đọt chè từ 3 đến 15 tuổi. Nước trà usucha vừa xanh, vừa có bọt. Nghi lễ này cũng tương tự như lễ koicha, nhưng khác ở chỗ pha riêng cho mỗi người một bát. Cho nên bát trà usucha nhỏ hơn bát trà koicha. Mỗi bát trà usucha pha hai thìa hoặc hai thìa rưỡi bột trà. Theo tục lệ, mỗi khách phải uống cạn bát trà của mình. Uống xong, khách phải lau chỗ mình uống ở miệng bát bằng ngón tay phải, rồi lau tay bằng cách vuốt vào khăn giấy kaishi.
Khi chủ nhân dọn dẹp trà cụ và mang ra khỏi phòng trà, sau đó quay lại quì cúi đầu trước mặt khách thì cũng là lúc lễ uống trà đã xong. Chủ nhân dẫn khách rời trà thất và ân cần tiễn ra tận cổng.
Để thực hiện đầy đủ các nghi lễ trên thì ít nhất cũng cần tới 4 giờ. Nếu chỉ thực hiện lễ usacha thì cũng gần một giờ.
Nhật Bản không phải là đất trồng chè, chính do hiếm chè và do cái lối tư duy hướng về phân tích, cái gì cũng phải quy thành thứ tự, lớp lang nên mới tạo ra cái sản phẩm độc đáo là trà đạo. Cái hay của trà đạo hoàn toàn không phải ở chất lượng trà: Trà Nhật chỉ là một loại trà xanh nghiền nát ra và khuấy với nước, do các thiền sư Nhật sang học ở Trung Quốc thời Đường-Tống mang về rồi cứ như vậy mà dùng. Với người Trung Quốc hoặc Việt Nam quen uống những loại trà ngon thì mạt trà Nhật Bản là vô củng dở.
Cái hay của trà đạo chỉ là ở tính nghiêm ngặt về hình thức và tính triết học về nội dung của các nghi lễ. Trà đạo là sự sáng tạo và kết hợp tài tình theo kiểu Nhật Bản cái nhu cầu thanh tịnh của các Thiền sư và Đạo sĩ, với nghệ thuật uống trà Trung Hoa được nâng lên thêm một bậc về mức độ cầu kỳ, cùng bình bát gốm sứ tao nhã Giao Chỉ – An Nam – Đại Việt.
Thoạt nhìn, người nước ngoài thường có cảm giác rằng nghi lễ trà đạo Nhật Bản là vô cùng gò bó, nhàm chán; nhưng với người Nhật, nó có tác dụng rất quan trọng trong việc giáo dục tác phong chững chạc. Thông qua việc tiếp thu các nghi lễ, người Nhật còn học được sự ngăn nắp, trọng kỉ luật và tuân thủ các quy chế xã hội.
Trà đạo có ảnh hưởng lớn tới văn hóa và mỹ thuật Nhật Bản: văn học, nhà cửa, trang phục, cách nấu ăn, đồ sơn, đồ sứ, đồ vẽ… Trà đạo không phải chỉ là một chủ nghĩa thẩm mỹ đơn giản theo ý nghĩa thông thường mà là một triết lý biểu thị tất cả quan niệm về con người và tạo hóa. Trà đạo là nghệ thuật đi tìm cái đẹp trong sự thanh nhã giản dị, là nghệ thuật che giấu cái đẹp mà người ta có thể khám phá ra được, và gợi ra những điều mà tự mình không dám tiết lộ [Okakura Kakuzo 1967: 28].
Bởi vậy mà trải qua nhiều thế hệ, trà đạo vẫn được người Nhật trân trọng giữ gìn và phát triển.
Chú thích:[1] Với loại chén uống trà này thường được gọi là Chung trà hay Tách trà, chén hạt gạo hay những vật dụng bằng sứ khi soi ánh sáng vào trong thì thân vật dụng nổi lên các hạt nhỏ như hạt gạo do ánh sáng có thể xuyên qua được.[2] Trong nhiều tài liệu chỉ ra cửa vào trà thất thấp hơn đầu người, khi vào bắt buộc trà khách phải cúi đầu thể hiện sự tôn kính và phục thiện.Việt BắcCHÈ VÀ VĂN HOÁ TRÀ / GS.TSKH. Trần Ngọc ThêmĐược viết và trình bày trong buổi sinh hoạt ở Câu lạc bộ Trà của sinh viên Tp. HCM tại Nhà văn hóa Thanh niên vào dịp tất niên 2005.
0 nhận xét:
Post a Comment