Sau khi mô hình tự nhiên luận của Rousseau về sự “tha hóa” đã được Immanuel Kant cải biến bằng mô hình văn hóa luận (trung lập hóa vai trò của tự nhiên và tự trị hóa vai trò của văn hóa (Tha hóa như là… văn hóa, Sài Gòn Tiếp Thị 26.10), công cuộc phê phán văn hóa không còn dựa trên thước đo ở bên ngoài văn hóa nữa, trái lại, là chuyện nội bộ của văn hóa. Phải dùng chính văn hóa để phê phán văn hóa! Vậy, thước đo nào đây?
Tất nhiên, các hiện tượng văn hóa rất đa dạng và có khi trái ngược nhau, nhưng tất yếu phải có một cái gì đó trong lĩnh vực đa dạng này được trao cho vai trò là thước đo cho những cái còn lại.
Thay vì đi tìm thước đo quá phức tạp, người ta chuộng lối nhị phân (phân đôi) dễ hình dung và “nắm bắt”. Vì thế, ta không ngạc nhiên khi thấy tất cả những nhà văn hóa lớn trong suốt thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20 đều chọn lối tư duy này. Nổi bật ở đây là sự đối lập giữa “văn hóa” và “văn minh” như là thước đo tiện dụng nhất. Bắt đầu từ Kant, nhưng thật sự thịnh hành từ 1850 cho đến hết nửa đầu thế kỷ 20, trước khi có một cách hiểu khác về văn hóa. Theo cách hiểu thông thường, văn hóa đối lập với văn minh tựa như: Nguyễn Du, Goethe đối lập với xe lửa, máy bay; dương cầm, đàn bầu với bóng đá, quần vợt; bút nghiên với bút bi, máy tính; rượu chát hảo hạng với Coca-Cola và những gì mang mùi… Huê Kỳ! Văn hóa – bị quy giản hay được tôn vinh theo nghĩa hẹp như thế – luôn có nghĩa là cái gì “cao cấp hơn”, là “những giá trị vĩnh cửu”, là “bề sâu tâm hồn”… trong khi văn minh khiến ta liên tưởng đến cái kỹ thuật, đơn thuần có tính chức năng, hữu dụng và… sinh lợi. Theo mô hình này, văn hóa có giá trị tự thân, còn văn minh chỉ hay ho khi phục vụ cho cái khác: một bên là vương quốc của cứu cánh, bên kia là thế giới phương tiện.
Truy nguyên nguồn gốc, người ta phát hiện rằng sự đối lập văn hóa – văn minh vốn là đặc sản của nước Đức, gắn liền với “con đường riêng” của nước này, chống lại xu thế Tây Âu hóa, Mỹ hóa, đô thị hóa, nói ngắn, gắn liền với những hậu quả văn hóa của quá trình công nghiệp hóa muộn màng của nước Đức so với các nước Tây phương khác. Mặc cảm tự ti chuyển hóa thành mặc cảm tự tôn: ta tuy nghèo nhưng cao sang, sân không có xe hơi nhưng chữ nghĩa đầy bồ, “an bần lạc đạo”! Một thời gian dài, tầng lớp thượng lưu về văn hóa tự hào đã bù đắp cho sự nghèo nàn về vật chất so với tầng lớp giàu có ở các nước Tây Âu khác “chỉ đơn thuần văn minh”. Một thái độ không phải hoàn toàn vô hại, bởi nó sẽ dẫn đến khói lửa chiến tranh: cuộc thế chiến thứ nhất tràn ngập những luận điệu tuyên truyền tâm lý chiến như thế, và mấy mươi năm sau, được lặp lại ở quy mô ác liệt hơn nữa dưới chế độ Đức quốc xã.
Bài học thật cay đắng: sau thế chiến thứ hai, mọi người bàng hoàng nhận ra rằng nền “văn hóa cao cấp và đích thực” ấy đã không ngăn cản được Hitler và tội ác diệt chủng khủng khiếp chưa từng có! Ý định tốt đẹp và cao cả của Herder (1744 – 1803) muốn kết hợp văn hóa với bản sắc và tinh thần dân tộc đã bị lạm dụng đến mức cực đoan, khiến Adorno (1903 – 1969) phải thốt lên: “Sau Auschwitz (*), mọi văn hóa đều trở thành rác rưởi, và thật là dã man khi còn ngồi đấy mà làm thơ!”, nhất là khi phải nghe những tên chuyên chế tiếp tục nhân danh “văn hóa”.
Từ giữa thế kỷ 20, chưa bao giờ từ “văn hóa” bị mất giá và bị nghi ngờ đến thế ở Tây Âu. Một mặt, nếu “văn hóa” được hiểu như là bộ phận của “kiến trúc thượng tầng”, nó có thể mang tính “ý hệ”, lừa mỵ. Mặt khác, “văn hóa” cũng không còn là một khái niệm khoa học nghiêm chỉnh nữa, bởi nó không có tính “trung lập về giá trị”. Đó là lý do khiến từ “xã hội” lên ngôi như một khái niệm bao trùm, thậm chí mang ý nghĩa tích cực, “tiến bộ”. Đến những năm 1980, thế kỷ 20, từ “văn hóa” mới dần dần lấy lại vị trí và thế đứng nhờ một loạt sự kiện. Trước hết, thật không dễ phân biệt giữa “kiến trúc thượng tầng” và “cơ sở hạ tầng” (chẳng lẽ “hạ tầng” không phải và không có văn hóa? “thượng tầng” lẫn “hạ tầng” chẳng phải do “thượng tầng” xác định nên?), và kỳ cùng, lấy gì phân biệt giữa xã hội và văn hóa? Từ đó, khái niệm “văn hóa” ngày càng được hiểu theo nghĩa rộng. Văn hóa là toàn bộ thế giới cuộc sống của con người, chứ không chỉ giới hạn theo nghĩa hẹp (kiểu Đức!) như là một bộ phận của toàn bộ hệ thống văn hóa, bên cạnh những bộ phận khác như chính trị, pháp luật, kinh tế, khoa học v.v.. Định hướng theo khái niệm mới mẻ của môn văn hóa học, tiếp thu và phát triển khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng của môn nhân học văn hóa (cultural anthropology) từ những năm 1930 thế kỷ trước, văn hóa, trong mọi phương diện của nó, trở thành đối tượng của khoa học khách quan, trung lập về giá trị. Cái giá phải trả: các lý thuyết văn hóa từ nay tự thân không còn mang tính phê phán, cả theo nghĩa đánh giá dựa theo một chuẩn mực có sẵn, lẫn theo nghĩa đề phòng và “phê phán ý hệ” đối với một bộ phận “thượng tầng”.
“Văn hóa như là số nhiều” không chỉ là một nhận định khoa học mà còn là một thành tựu văn hóa nổi bật trong thời gian qua.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà tư duy về văn hóa không được bù đắp. Thay chỗ cho sự phê phán, đánh giá kiểu tiền – hiện đại xuất phát từ sự độc tôn của một nền văn hóa hay một lĩnh vực văn hóa nhất định, xem các nền văn hóa xa lạ và các lĩnh vực văn hóa mình không ưa chuộng là thấp kém, phản tự nhiên, người ta học cách tôn trọng cái khác biệt, xem nền văn hóa của mình chỉ là một trong nhiều nền văn hóa. Chỉ khi nhìn nhận giá trị riêng biệt của nền văn hóa xa lạ và lĩnh vực văn hóa không quen thuộc để không quy tất cả vào thước đo của riêng mình, mới có thể tạo không gian cho việc sử dụng bản thân khái niệm văn hóa một cách khách quan và khoa học. “Văn hóa như là số nhiều” không chỉ là một nhận định khoa học, mà còn là một thành tựu văn hóa nổi bật trong thời gian qua.
Tinh thần phê phán văn hóa không mất đi, trái lại, bằng sự phản tỉnh, nhiều thế hệ đã đi tìm những cặp khái niệm khác thay cho cặp đối lập “văn hóa – văn minh” sau khi từ bỏ vị trí độc tôn của một khái niệm hẹp về văn hóa bên trong toàn bộ đời sống văn hóa. Nhưng, đó là một… câu chuyện dài và chúng ta đã đi quá nhanh!
Theo SGTT.VN
(*) Tên một trại tập trung khét tiếng của Hitler
|
0 nhận xét:
Post a Comment